Bài thơ "Tây Tiến" của nhà thơ Quang Dũng đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của mình, để lại biết bao những xúc cảm bâng khuâng trong lòng đọc giả. Lịch sử có thể ngày càng lùi xa, nhưng những tháng năm "bom rơi đạn nổ" với sự dũng cảm, can trường của người lính
Ban đầu, bài thơ có tựa đề "Nhớ Tây Tiến". Đến năm 1957 bài thơ được in trong tập "Mây đầu ô" thì được bỏ từ "nhớ". Cùng phân tích bài thơ Tây Tiến để thấy rõ nét hình ảnh người lính được khắc họa như thế nào. Tây Tiến là bài thơ khắc họa hình
Bài 6: Số vô tỉ. Căn bậc hai số học. Bài 7: Tập hợp các số thực. Ôn tập chương II. Chương 3: Góc và đường thẳng song song - SBT KNTT. Bài 8: Góc ở vị trí đặc biệt. Tia phân giác của một góc. Bài 9: Hai đường thẳng song song và dấu hiệu nhận biết. Bài 10: Tiên đề Euclid.
I. Các đề văn về bài thơ Tây Tiến. Về bài thơ Tây Tiến Văn 12 của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng. "Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn. Những nét đau, nhưng đó là cái buồn đau bi tráng. Chứ không phải là cái buồn đau bi lụy".
Tại Phù Lưu Chanh, tác giả viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. + Nhan đề: - Ban đầu Nhớ Tây Tiến > in lại đổi thành Tây Tiến. - Ý nghĩa: Xem chi tiết. Đảm bảo tính hàm súc của thơ (Văn hay mạch kị lộ) > cảm xúc chủ đạo chi phối mạch thơ (nối nhớ) được giấu kín.
Vay Tiền Nhanh Ggads. Bài viết tổng hợp kiến thức cơ bản cần nhớ và những dạng đề thi liên quan đến bài thơ Tây Tiến- Quang Dũng. Mục lụcPhần 1 Những dạng đề thi về bài Tây TiếnMột số đề bài tham khảo Phần 2 Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng1. Quang Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Dạng 1 Cảm nhận về đoạn thơ , bài thơ Đề thi thường trích dẫn 1 hoặc 2 khổ thơ trong bài Tây Tiến và yêu cầu nêu cảm nhận. Rất ít khi cho phân tích cả bài. Dạng 2 Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến- Quang Dũng Dạng 3 So sánh đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng với đoạn thơ trong bài thơ khác có cùng chủ đề hoặc có điểm tương đồng về nội dung. Với bài Tây Tiến- Quang Dũng, đề thi có thể yêu cầu so sánh với Việt Bắc, Đất nước, hoặc đoạn thơ miêu tả hình tượng người lính ,… Dạng 4 Liên hệ thực tế. Ví dụ đề bài cho phân tích hình tượng người lính Tây Tiến , từ đó liên hệ tới hình ảnh người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương chẳng hạn,… hoặc liên hệ tới lí tưởng sống của thanh niên thời nay. Kiến thức trọng tâm Hình tượng người lính Tây Tiến , Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng Một số đề bài tham khảo Đề 1 So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây Tiến – Quang Dũng Có biết bao người con gái con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm Đáp án Đề2 Đề so sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử và đoạn thơ trong bài Tây Tiến – Quang Dũng. Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây Tiến – Quang Dũng Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử Hướng dẫn Đề 3 Phân tích đoạn 1 Tây Tiến , từ đó cho thấy bút pháp lãng mạn của Quang Dũng Đáp án Đề 4 Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Đáp án Đề 5 Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua khổ đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Đáp án Đề 6 Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. “Tây Tiến” – Quang Dũng Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”. “Việt Bắc” – Tố Hữu. Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên ? Đáp án Đề 7 Về đoạn thơ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Trích Tây Tiến – Quang Dũng – SGK Ngữ Văn 12, tập 1 – Trang 88 Có ý kiến cho rằng Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt. Đáp án Đề 8 Cảm nhận của em về vẻ đẹp của người chiến sỹ trong bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng , qua đó liên hệ tới vẻ đẹp của người chiến sỹ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương? Đáp án Còn nữa, các em vào link này thường xuyên để cập nhật những bài viết mới nhất nhé Phần 2 Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng 1. Quang Dũng. – Quang Dũng 1921-1988 tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây. – Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn và tài hoa. Các tác phẩm chính Mây đầu ô, Thơ văn Quang Dũng… 2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. – Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947. – Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân TT khá rộng nhưng chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. – Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 3. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng – Cảm hứng lãng mạn Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi trữ tình – nỗi nhớ nồng nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh, phát huy cao độ trí tưởng tượng khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng độc đáo. Đối tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào hoa, mộng mơ, lãng mạn. Sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập đối lập về hình ảnh, thanh điệu, tính cách của người lính TT. – Âm hưởng bi tráng “bi” là đau buồn, “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm có âm hưởng bi tráng thường không né tránh những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến những xúc cảm mạnh mẽ, rắn rỏi. Tác giả đã nhắc đến những khó khăn gian khổ trong những cuộc hành quân, nói đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà không luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. – Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. 4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. a. Nội dung – Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ, trữ tình. – Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến tâm hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. – Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và quê hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Đoạn 1 Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” – Nỗi nhớ của tác giả Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi – Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” , gọi tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi tên những người thân thương trong cuộc đời chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một “ mảnh tâm hồn” của tác giả. – Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “ chơi vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng , nhớ sông Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm không thể nào vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác giả trào dâng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt. – Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ , con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét. – Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một nét riêng không dễ gì quên Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi …. Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ….. Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người …… Mai Châu mùa em thơm nếp xôi + Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua. + Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến. + Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới mưa thật lãng mạn, trữ tình. + Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên. + Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là khiến cho con người cảm giác bất an “cọp trêu người”. Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có nhiều gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình. – Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua đoạn thơ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống ….. Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bút pháp,… + Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút” + Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời – “ súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống” . + Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu người” + Sử dụng nhiều thanh Trắc. + Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn, khó quên. – Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ toàn thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách. Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. – Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ không còn đủ sức để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành hành nên không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thôi thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do. Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến và bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét. Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc Yêu mến, gắn bó và tự hào. Chế Lan Viên Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn * Đoạn 2 Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” * Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ + Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào Tây Bắc, Lào . “ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”, có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt tha , e ấp, dịu dàng. “ Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người. + Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “ đóa hoa” say lòng người đến thế. + Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn. + Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt. * Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,…thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884 mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người. “ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” Chế Lan Viên + “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. + “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”. + Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến người. “ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa! Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. + Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Đoạn 3 chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong máu lửa chiến tranh. TâyTiến đoàn binh không mọc tóc………Sông Mã gầm lên khúc độc hành * Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm , đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,… TâyTiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm – Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang , tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ. – “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ Hồ. * Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời biên giới và Hà Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,… – Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ. – Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn,…? Hình ảnh “ dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị , ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc. Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến – Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại nơi chân đèo góc núi “Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. – Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối của đoạn thơ Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “ chết”, “ hi sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ. * Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài . Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc “ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế !” Tố Hữu * Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng Quang Dũng khẳng định , ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng. b. Nghệ thuật – Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh. – Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,.. – Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc. – Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng. Nét bút tài hoa của Quang Dũng. Còn nhiều đề thi khác vè bài Tây Tiến, các em bấm vào link này để xem chi tiết nhé Tổng hợp đề thi về các tác phẩm trọng tâm lớp 12 tây tiến
Để tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác, chủ đề bài thơ, từ đó có thêm cơ sở cho việc phân tích bài thơ Tây Tiến, các em học sinh hãy cùng tham khảo bài viết Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến dưới đây. Bài viết liên quan Cảm nhận về tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc trong bài Tây Tiến Cảm nhận vẻ đẹp của đoạn thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến "Doanh trại... đong đưa" Cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của cảnh và người miền Tây trong bài Tây Tiến Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa Hoàn cảnh sáng tác Vịnh khoa thi Hương Đề bài Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây TiếnMục Lục bài viếtI. Dàn ý chi tiếtII. Bài văn mẫu I. Dàn ý Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến 1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến 2. Thân bài- Hoàn cảnh sáng tác+ Quang Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến-> Viết về Tây Tiến là viết về những trải nghiệm của người lính từng cầm súng chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến.+ Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch -> Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng.+ Cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Chủ đề+ Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc -> Thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến.+ Tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Pháp. 3. Kết bàiKhái quát đặc sắc bài thơ II. Bài văn mẫu Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây TiếnQuang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, sức sáng tạo của ông ghi dấu trên nhiều lĩnh vực như viết văn, làm thơ, vẽ tranh , trong đó nổi bật hơn cả có thể kể đến thơ ca. Giữa rừng thơ ca kháng chiến muôn màu muôn vẻ, hồn thơ Quang Dũng được độc giả đặc biệt ấn tượng với nét phóng khoáng, ngang tàng nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn điển hình cho tâm hồn thanh lịch, hào hoa của những chàng trai Hà thành. Nếu nhắc đến Quang Dũng ta nhớ đến chất ngang tàng, hào hoa thì Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu nhất cho hồn thơ Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến, bởi vậy có thể nói viết về Tây Tiến Quang Dũng đã đứng ở vị trí của những người lính để ghi lại những trải nghiệm của mình cùng đồng đội trong những ngày kháng chiến gian khổ mà cũng đáng nhớ nhất trong cuộc đời mình. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ biên giới. Lực lượng chính của binh đoàn là tầng lớp thanh niên, học sinh Hà thành, Quang Dũng từng vinh dự được đứng trong hàng ngũ của binh đoàn ấy, trong thời gian công tác và hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng. Tuy nhiên, đến cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến để ghi lại những cảm xúc thiêng liêng, những kỉ niệm gắn bó đã có với những người đồng đội, với mảnh đất Tây nét hào hoa, lãng mạn của thanh niên, trí thức Hà Thành, Quang Dũng đã mang đến cho "Tây Tiến" một chất lính đầy mới lạ, cũng đầy xúc động. Đó là những người lính có lí tưởng, luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh, là những chàng thanh niên mang trong mình sức trẻ, tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Qua Tây Tiến, độc giả đón nhận một hình tượng hoàn toàn mới lạ về người lính trong kháng chiến, đó không chỉ là những con người yêu nước, cháy bỏng một niềm tin, lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" mà còn mang nét hào hoa, lãng mạn của những con người yêu nước, yêu đề, nội dung tư tưởng của bài thơ Tây Tiến phần nào được gửi gắm ngay trong chính nhan đề giàu sức gợi "Tây Tiến". Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến mà qua đó còn tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng không chỉ thành công tái hiện không khí chiến đấu quyết liệt, gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp mà trên cái nền dữ đội, khốc liệt của cuộc chiến ấy, Quang Dũng còn gợi cho người đọc sự xúc động mạnh mẽ về hình ảnh ngang tàng, hào hoa của người lính Tây Tiến xưa. Trên đây là chúng tôi đã giới thiệu đến các bạn Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến, bên cạnh đó để tìm hiểu chi tiết về nội dung, nghệ thuật bài thơ Tây Tiến, các bạn có thể tham khảo thêm một số Bài văn hay lớp 12 có chủ đề liên quan như Bình giảng bài thơ Tây Tiến, Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến, Cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc..., Hình ảnh miền Tây Tổ Quốc qua bài thơ Tây Tiến.
ĐỌC HIỂU 3 điểm Đọc đoạn trích sau Trong mỗi người chúng ta có chứa đựng hai phần đối lập – bóng tối và ánh sáng. Để hạnh phúc luôn mỉm cười, ta cần phát huy mặt tốt và không phủ nhận mặt xấu trong con người mình. Khi không dám đối diện với nỗi sợ hãi và cơn ác mộng giày vò tâm trí ta sẽ gián tiếp khước từ những cảm xúc tốt đẹp đang hiện hữu trong trái tim mình. Và cứ thế bóng tối dần xâm chiếm và bao phủ lên những điều tuyệt vời ta đang có. Ngược lại, nếu ta can đảm đương đầu và chiếu rọi ánh sáng vào những vùng tối tăm, bóng tối sẽ lùi lại và tan biến. Thật vậy; sự trưởng thành của mỗi người phụ thuộc vào sự dũng cảm đối mặt với thử thách – những thử thách không chỉ ở thế giới bên ngoải mà cả ở thế giới nội tâm. Bóng tối sẽ không thể tồn tại nếu ta phơi bày nó trước ánh sáng của sự thiện tâm, lòng nhân hậu và sự khoan dung, bởi chẳng có bóng tối nào trên thế gian này có sức mạnh và quyển nâng to lớn bằng tình yêu. Tian Daỵton, Ph. D, Quên hôm qua, sống cho ngày mai, NXBTống hợp TP. HCM, tr. 129 Thực hiện những yêu cầu Câu 1. Dựa vào đoạn trích, hãy cho biết đểhạnh phúc luôn mỉm cười tacần phải làm gì? Câu 2. Theo tác giả, điều gì sẽ xảy ra nếu mỗi con người không dám đốidiện với nỗi sợ hãi? Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào về lời khuyên Ta cần không phủ nhận mặt xấu trong con người mình? Câu chị hãy nhận xét về quan điểm tác giả thể hiện trong đoạn trích? VĂN 7 điểm Câu 1 2 điểm Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ để trả lời câu hỏi Làm thế nào để vượt qua thử thách ở ngay trong chính bản thân mình? Câu 2 5 điểm Cảm nhận của anhchị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ Văn 12 tập 1, NXB Giáo dục, 2016 Từ đó, hãy nhận xét về bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng. ……………….Hết…………… Phần Câu Nội dung Điểm I ĐỌC HIỂU 1 Để hạnh phúc luôn mỉm cười, ta cần phát huy mặt tốt và không phủ nhận mặt xấu trong con người mình. 2 Theo tác giả, nếu không dám đốidiện với nỗi sợ hãi, con người sẽ gián tiếp khước từ những cảm xúc tốt đẹp đang hiện hữu trong trái tim mình. Và cứ thế bóng tối dần xâm chiếm và bao phủ lên những điều tuyệt vời ta đang có. 3 Lời khuyên Ta cần không phủ nhận mặt xấu trong con người mình có thể được hiểu là -Ta không nên né tránh, chối bỏ mặt xấu đã và đang hiện hữu trong con người mình. – Việc đối diện với mặt xấu trong mỗi con người sẽ giúp ta có nhận thức đúng về sai lầm, khiếm khuyết của bản thân để tìm cách khắc phục. đ 4 – Quan điểm mà tác giả thể hiện trong đoạn trích là Để trưởng thành, mỗi người cần dũng cảm đối diện với cái xấu ở ngay trong chính con người mình. – Đây là quan điểm đúng đắn, có ý nghĩa cảnh tỉnh, động viên, khích lệ mỗi người… II 1 LÀM VĂN điểm Viết đoạn văn để trả lời câu hỏi Làm thế nào để vượt qua thử thách ở ngay trong chính bản thân mình điểm a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn b. Xác định đúng vấn đề nghị luận Làm thế nào để vượt qua thử thách ở ngay trong chính bản thân mình? c. Triển khai vấn đề nghị luận Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ ý nghĩa của việc thay đổi chính mình. Có thể viết đoạn văn theo hướng sau – Để vượt qua thử thách ngay trong chính bản thân mình + Mỗi người cần bắt đầu bằng việc không né tránh, dũng cảm đối diện với chính thử thách – sự hèn nhát, thói ích kỉ, lòng tham, sự đố kị… + Không dễ dãi thỏa hiệp với thói xấu, đấu tranh với chính mình để loại trừ những thói xấu… + Lắng nghe góp ý, phê bình thẳng thắn từ người khác để khắc phục nhược điểm… + Dẹp bỏ cái tôi hẹp hòi, nông cạn và quyết tâm chiến thắng những thử thách của bản thân… đ c. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp d. Sáng tạo Có cách diễn đạt mới mẻ, sâu sắc về vấn đề nghị luận 2 – Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ “Tây Tiến đoàn binh…khúc độc hành” – Từ đó, hãy nhận xét về bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng. 5,0 điểm a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề. 0,25đ b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn đó đưa ra những nhận xét về bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng. 0,5đ c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ được những luận điểm lớn sau 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận – Tây Tiến là bài thơ xuất sắc của Quang Dũng – một nghệ sĩ đa tài, một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. Bài thơ viết năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, viết về binh đoàn Tây Tiến – thành lập năm 1947 với những người lính phần đông là thanh niên Hà Nội chủ yếu là học sinh, sinh viên. – Đoạn thơ là đoạn thứ ba của bài thơ, khắc họa hình tượng đoàn binh Tây Tiến. Đoạn thơ vừa đậm chất hiện thực, vừa điển hình cho bút pháp lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. 2. Khái quát chung – Đoạn thơ nằm trong mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ – nỗi nhớ, khắc họa vẻ đẹp người lính Tây Tiến vừa lãng mạn, vừa bi tráng, hào hùng với sức mạnh và lí tưởng và sự hi sinh cao cả mà cội nguồn là lòng yêu nước. – Hình tượng người lính Tây Tiến tiêu biểu cho vẻ đẹp người lính chống Pháp. 3. Triển khai các luận điểm chính Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến a. Vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn – Người lính xuất hiện trực tiếp trên cái nền hoang vu hiểm trở và thơ mộng của Tây Bắc với một vẻ đẹp độc đáo, kì lạ. Lính Tây Tiến hiện ra oai phong và dữ dội khác thường. Nhưng ẩn sau cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, một tâm hồn đầy mộng mơ mộng lập công, mơ về Hà Nội với trái tim rạo rực, khao khát yêu đương Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm b. Vẻ đẹp bi tráng gắn với lí tưởng và sự hi sinh cao đẹp – Thực tế gian khổ thiếu thốn làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi tóc vệ trọc. Quang Dũng không hề che giấu sự thực tàn khốc đó. Song, họ ốm mà không yếu, bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường, lẫm liệt, hùng tráng. Sau vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng dữ oai hùm. – Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội, bi tráng của dòng sông Mã Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ->Hình ảnh những người lính Tây Tiến thấm đẫm vẻ đẹp bi tráng, chói ngời lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại. => TK Hình tượng lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp hào hùng vừa hào hoa, lãng mạn; vừa bi hùng, bi tráng gắn với lí tưởng cao cả, lòng yêu nước cháy bỏng, vì Tổ quốc mà hi sinh. Nhận xét bút pháp hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng – Chất hiện thực hiện thực đến trần trụi. Nhà thơ không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh khi nói về khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật, sự xanh xao, tiều tụy của người lính; không né tránh cái chết khi miêu tả cảnh tượng hoang lạnh và sự chết chóc đang chờ đợi người lính Rải rác biên cương mồ viễn xứ -> Chất hiện thực tôn lên vẻ đẹp hình tượng – Bút pháp lãng mạn + Thể hiện ở nỗi nhớ và tình yêu, gắn bó, giọng điệu ngợi ca, tự hào tràn ngập trong mỗi dòng thơ về người lính. + Thể hiện trong việc tô đậm vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, hào hoa trong tâm hồn người lính Hà Thành qua thủ pháp đối lập vẻ ngoài dữ dội với tâm hồn bên trong dạt dào cảm xúc, bay bổng. + Thể hiện ở khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng thủ pháp đối lập hiện thực thiếu thốn, bệnh tật, chết chóc đối lập với sức mạnh dữ dội, lẫm liệt và lí tưởng anh hùng cao cả, sự hi sinh bi tráng. + Thể hiện ở bút pháp lí tưởng hóa hình tượng. -> Hiện thực và lãng mạn cùng khắc tạc nên bức tượng đài độc đáo và cao đẹp về người lính chống Pháp. 4. Đánh giá – Vẻ đẹp hình tượng người lính hội tụ ở vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa nhưng lại rất mạnh mẽ, hào hùng; vẻ đẹp bi tráng gắn với lí tưởng và sự hi sinh cao cả. – Vẻ đẹp đó thể hiện đậm nét phong cách thơ Quang Dũng hiện thực đến trần trụi nhưng lãng mạn đến bay bổng, một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa 0,5đ 0,25đ 1,0đ 1,0đ d. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt 0,25đ e. Sáng tạo Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề NL 0,5đ THIẾT LẬP MA TRẬN ĐỀ THI THAM KHẢO KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT môn ngữ văn – NĂM HỌC 2020 – 2021 Nội dung Mức độ cần đat Tổng số Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao I. Đọc hiểu Ngữ liệu Tổng Số câu 2 1 1 4 Số điểm 1,0 3,0 Tỉ lệ 10% 10% 10% 30% II. Làm văn Nghị luận xã hội Nghịluận văn học Viết đoạn văn Viết bài văn Tổng Số câu 1 1 2 Số điểm 2,0 5,0 7,0 Tỉ lệ 20% 50% 70% Tổng cộng Sô câu 2 1 2 1 5 Số điểm 1,0 1,0 3,0 5,0 10,0 Tỉ lệ 10% 10% 30% 50% 100% đề thi thử THPT quốc gia ngữ văn, tây tiến
Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên ? Hãy phân tích bài thơ Tây Tiến để làm sáng tỏ ý kiến đó. Gợi ý Giải thích nhận định – Riêng nét mới, cái độc đáo. – Vì sao văn chương phải có cái riêng văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo. Mỗi tác phẩm văn chương phải có nét riêng, nét mới ở ý tưởng nghệ thuật cũng như ở hình thức biểu hiện. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật riêng, một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn. – Vì sao văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả mới mẻ, độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương. Tác phẩm chương không có gì mới sẽ không được người đọc tiếp nhận. Nhà văn có phong cách nghệ thuật mờ nhạt sẽ bị người đọc quên lãng ; lặp lại mình hoặc lặp lại người khác đều là điều tối kị trong hoạt động sáng tác của nhà văn. Cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật => Nhận định nhấn mạnh tầm quan trọng của phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cái độc đáo cho tác phẩm. Phân tích bài thơ để làm rõ vấn đề nghị luận a/ Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm b/ Phân tích – Nét riêng trong lựa chọn, xử lí đề tài, xác định chủ đề Người lính Tây Tiến xuất thân là những trí thức Hà Thành. Họ vừa có dáng dấp của những tráng sĩ thuở trước vừa mang đậm vẻ đẹp của người lính chống Pháp, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn vừa có chất bi tráng. – Cách nhìn, cách cảm thụ giàu khám phá nghệ thuật cách nhìn, cách cảm mới mẻ về người lính trong số những bài thơ viết về người lính năm 1948 như Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu, Đồng chí của Chính Hữu…..thì Tây Tiến của Quang Dũng nói nhiều đến sự hi sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết của người lính ở chiến trường, ở rừng sâu nước độc, ở biên giới Tây Bắc, cái chết vì súng đạn, cái chết vì bệnh tật, thiếu thốn….nhưng đoạn thơ và cả bài thơ vẫn không hề gây cảm giac bi lụy. – Giọng điệu riêng của bài thơ Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc. + Đọan 1 gịong tha thiết, bồi hồi, được cất lên thành những tiếng gọi những từ cảm thán. + Đọan 2 tái hiện kỉ niện về những đêm liên hoan thắm tình quân dân, giọng điệu chuyển sang hồn nhiên , tươi vui; sau đó bâng khuâng, man mác khi gợi lại một cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ Châu Mộc. + Đọan 3 giọng thơ trang trọng bi tráng, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh cao cả của họ. + Đọan 4 tha thiết, bồi hồi…. => Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là bi tráng. – Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn riêng + Hình ảnh trong bài thơ được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ phong phú. Trong bài thơ có hai hình ảnh chính thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến. Ở mỗi loại hình ảnh có hai dạng chính, tạo nên sắc thái thẩm mỹ phối hợp, bổ sung cho nhau. Thiên nhiên có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ thanh trắc, nét vẽ khoẻ khoắn, dữ dằn. Bên cạnh đó, có những hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, hoa đong đưa thanh bằng, nét vẽ nhoè mờ kiểu tranh lụa. Tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp để miêu tả, dựng hình ảnh, có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây. Hình ảnh người lính Tây Tiến cũng hiện ra với nhiều sắc thái, chủ yếu là hào hùng và hào hoa. Hào hùng ở ý chí, tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ. Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng. => Trong thơ có nhạc, có hoạ, có chạm khắc theo một cách riêng. + Đặc sắc ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hòa trộn của nhiều sắc thái phong cách với ngôn ngữ những lớp từ vựng đặc trưng. Có thứ ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc cổ kính, chủ yếu miêu tả hình ảnh Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ. Có lớp từ ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày, in đậm phong cách người lính. Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ là có những kết hợp từ độc đáo mới lạ tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, mùa em thơm nếp xôi… Sử dụng địa danh tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người; gợi được vẻ heo hút nhưng cũng rất hấp dẫn của xứ lạ phương xa. + Thể thơ 7 chữ với các biện pháp tu từ nhân hoá, sử dụng từ láy, liệt kê, nghệ thuật đối… Đánh giá chung – Nội dung Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên đươc một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến hào hoa, dũng cảm. Nhà thơ đã tái hiện được hiện thực bi hùng của cuộc kháng chống Pháp trong niềm cảm hứng lãng mạn dạt dào. Nghệ thuật Bài thơ hội tụ nhiều nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng. Tây Tiến là một đóng góp đặc biệt của Quang Dũng cho thơ ca viết về người lính của văn học dân tộc. Xem thêm Bộ đề thi học sinh giỏi môn văn Tuyển tập đề thi, soạn bài Tây Tiến Quang Dũng, Ngữ văn 12 Nghị luận ý kiến bàn về văn học, tây tiến
Về bài Tây Tiến, các em học sinh có thể đọc nhiều đề thi liên quan ở link này Tây tiến Bài Việt Bắc có rất nhiều đề thi ở link này nhé Việt Bắc Đề bài Trong bài thơ “Vân chữ”, Lê Đạt viết “Mỗi công dân đều có một dạng vân tay Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn” Từ hai đoạn thơ dưới đây, hãy chỉ rõ dạng “vân chữ” “không trộn lẫn” của mỗi nhà thơ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi …Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Tây Tiến – Quang Dũng “Nhớ gì như nhớ người yêu …Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” Việt Bắc – Tố Hữu Hướng dẫn Thực ra đây là dạng đề nghị luận ý kiến bàn về văn học, các em có thể làm theo dàn ý sơ lược của kiểu bài này như sau Mở bài +Giới thiệu hai đoạn thơ trong đề bài + Trích dẫn ý kiến của Lê Đạt + Giới thiệu vấn đề nghị luận “vân chữ” “không trộn lẫn” của mỗi nhà thơ trong hai đoạn thơ trên Thân bài + Giải thích ý kiến Vân tay là gì ?ý nghĩa ? Vân chữ là gì? biểu hiện của vân chữ? Vai trò của vân chữ đối với mỗi nhà thơ? ->>Ý kiến trên khẳng định sự sáng tạo trong thơ. + Phân tích hai đoạn thơ để làm nổi bật vấn đề , chứng minh cho ý kiến thực chất là phân tích sự sáng tạo, cái hay, nét riêng biệt của hai đoạn thơ +Kết bài Đánh giá chung về hai nhà thơ, hai đoạn thơ Bài làm 1 Bài viết của học sinh Sinh thời, Macxim Gorki từng khẳng định “ Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng của mình, tìm thấy những ấn tượng có các giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có hình thức riêng”. Có thể nói, một người nghệ sĩ chân chính và có tài năng thật sự phải biết nhìn cuộc sống bằng con mắt của chính mình, bằng một cảm quan riêng để tạo ra được tiếng nói riêng, phong cách riêng. Nếu như là sao chép, vay mượn từ sự sáng tạo sẵn có của người khác, thì đó chỉ là một người thợ đơn thuần mà thôi. Một nhà sáng tác đích thực càng thành công thì phong cách sáng tạo của người đó càng độc đáo, đặc sắc. Đúng như Lê Đạt từng viết trong bài thơ “Vân Chữ” “Mỗi công dân đều có một dạng vân tay Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn” Mỗi con người sinh ra đều có một dấu vân tay riêng, mang những đường nét, hình dạng đặc thù, không giống nhau với bất kì ai cho dù đó là anh chị em đồng sinh. Vân tay là dấu hiệu, cũng là cơ sở chuẩn xác để xác minh danh tính của một công dân, được lưu trữ để xác thực nhân thân, phân biệt với người khác. Với cách nói đầy hình ảnh gợi sự liên hệ tương đồng với vân tay, Lê Đạt đã dùng “vân chữ” để chỉ hình thức sáng tạo ngôn từ độc đáo, hiểu rộng ra là nét riêng, cá tính sáng tạo của một nhà thơ. Đồng thời, cũng là để nhấn mạnh đó là yếu tố quan trọng để tạo nên một “người nghệ sĩ thứ thiệt” – một người nghệ sĩ chân chính, có tài năng và có tư chất.. Sáng tác thơ là quá trình tạo nên một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ nhằm truyền tải cảm xúc hay một nội dung ý nghĩa nào đó. Nhưng đặc tính của nó không nằm trong thông điệp tác giả gửi gắm mà nó nằm ở lớp vỏ ngôn từ. Ngôn từ vừa là phương tiện thể hiện, vừa là chính bản chất của một tác phẩm thi ca. Một bài thơ xuất sắc là một bài thơ mà việc bớt đi, thêm vào hay thay đổi dù một chữ cũng làm giảm đi giá trị của nó. Bởi vậy chắt lọc và sử dụng ngôn từ đạt đến tinh hoa thẩm mỹ đều là việc mà bất cứ nhà thơ nào cũng phải hướng tới, một khi đã muốn khẳng định và duy trì sự hiện tồn của mình trong một nền văn học. Không chỉ vậy, việc chắt lọc và sử dụng đó còn cần mang một cá tính sáng tạo riêng, một phong cách không trùng lặp, đó chính là “vân chữ” mà Lê Đạt nhắc đến. Từ lịch sử văn học thế giới nói chung và lịch sử văn học Việt Nam nói riêng, có thể thấy khi nhà thơ đáp ứng được những đòi hỏi đó, thì tác phẩm và tên tuổi của họ sẽ trường tồn mãi với thời gian. Tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là hai tác giả Quang Dũng và Tố Hữu, cho dù cùng viết về nỗi nhớ tha thiết những địa danh từng công tác, gắn bó trong suốt những tháng ngày gian khổ mà hào hùng cả dân tộc cùng tham gia kháng chiến chống Pháp, song mỗi nhà thơ đều có một nét đẹp rất riêng, rất độc đáo trong sáng tác, thể hiện qua đoạn trích của hai bài thơ “ Tây Tiến” và “ Việt Bắc”. Tám câu thơ đầu trong bài thơ “Tây Tiến” đã thể hiện nỗi nhớ da diết của Quang Dũng qua việc miêu tả rừng núi miền Tây, nhắc nhở những kỷ niệm về các chặng đường hành quân gian khổ mà kiên cường, anh dũng “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! …. Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi tha thiết. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”- ta cảm nhận được dồn nén trong một câu thơ bảy chữ ngắn ngủi là cả một nỗi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi. Vần “ơi” ngân nga, khiến nỗi nhớ dường như kéo dài miên man. Và nỗi nhớ ấy lại càng trải rộng thêm ra, trùm phủ khắp không gian núi rừng miền Tây khi chữ “nhớ” được lặp lại hai lần trong câu thơ thứ hai. Cái tài tình của Quang Dũng là đã miêu tả nỗi nhớ đó là “nhớ chơi vơi” – một hình ảnh thơ đầy sáng tạo, độc đáo và đem lại một hiệu quả vô cùng đắt giá. Từ “chơi vơi” cùng từ “ơi” ở câu trên vang vào thơ như một tiếng vọng, tạo ra một sự âm vang, gợi lên cái phiêu diêu, cái “chơi vơi” của nhà thơ giữa những hình ảnh của rừng núi trở về, hiện lên sống động rợn ngợp khắp không gian. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Thông thường, người ta thường nhớ về kỷ niệm để lại dấu ấn sâu sắc nhất với mình. Đối tượng đầu tiên trong nỗi nhớ của Quang Dũng là nhớ về rừng núi “Nhớ về rừng núi…” Có lẽ bởi trong suốt cuộc hành quân cùng binh đoàn Tây Tiến, rừng núi chính là khung cảnh đặc trưng nhất, quen thuộc nhất đối với Quang Dũng và đồng đội. Rừng núi in đậm bao niềm vui nỗi buồn của người lính. Hơn ai hết, tác giả chính là người thấm thía nhất những khó khăn mình đã từng trải qua “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mùa xa khơi” Quang Dũng không miêu tả thẳng những khó khăn gian khổ của người lính mà chỉ miêu tả cái hoang vu khắc nghiệt của một vùng rừng núi hoang dã; song đọc đoạn thơ ai cũng hiểu, cũng có thể tưởng tượng ra cuộc sống chiến đấu của người lính Tây Tiến. Những địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông” xa lạ càng làm cho núi rừng trở nên xa ngái, hoang vu, mà ở đó, kỷ niệm ùa về đầu tiên trong nhà thơ chính là những cuộc hành quân “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” Câu thơ chùng xuống, đều đều, gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải, nặng nề, khiến ta tưởng chừng như đoàn binh Tây Tiến sắp ngã xuống, sắp bị lấp chìm đi trong sương núi. Những không, âm điệu bài thơ bỗng trở nên nhẹ bâng, bồng bềnh bởi một câu thơ nhiều thanh bằng “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Đó là hương hoa đêm của núi rừng đưa hương ngào ngạt, hay là hình ảnh những ngọn đuốc hoa trên tay người lính cầm trong cuộc hành quân giữa đêm dài? Có lẽ hiểu theo nghĩa nào cũng đúng, hình ảnh nào cũng rất hay, rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên trong một không gian mờ ảo, phiêu bồng “đêm hơi”. Câu thơ đã xóa tan đi sự mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến để đoàn quân bước tiếp, tiếp tục vượt qua những chặng đường gian khổ “Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” Hình ảnh “khúc khuỷu” hiện lên làm ta cảm giác con đường đi khó khăn, vất vả biết mấy. “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn ấy dài thêm ra, sâu hút xuống, và cũng như tôn vị trí người lính đang đứng lên cao vòi vọi, sau khi đã vượt lên những con đường ngoằn ngoèo, uốn khúc. Đọc câu thơ lên ta cảm nhận rất rõ những bước chân nặng nề gắng gượng, những hơi thở nặng nhọc của người lính khi vượt qua hết con dốc này đến con dốc khác, dốc chồng lên dốc, hết dốc lên cao lại dốc lao xuống vô cùng vô tận. Thiên nhiên, địa hình khắc nghiệt của Tây Bắc hiện lên rõ nét, sinh động qua nét bút bạo, khỏe, gân guốc, ngôn ngữ có tính chạm khắc với một loạt những từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”? Song, dù thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu, chặng đường có gian khổ cách mấy thì người lính Tây Bắc vẫn hiên ngang, oai dũng vô cùng qua hình ảnh “Heo hút cồn mây súng ngút trời” Giữa cái xa xôi, hiu hắt, vòi vọi của độ cao, nơi nguy hiểm chồng chất dựng lên thành dốc, thành cồn, người lính đứng đó, mái đầu và đầu súng như chạm vào mây trời, ngang tàng, hiên ngang và khí phách. Hình ảnh thơ tếu táo “súng ngửi trời” đã nhấn đậm thêm vào vẻ đẹp ấy của người lính. Ta thấy con người và cây súng đã làm chủ được thiên nhiên, làm chế ngự được những khắc nghiệt, thử thách gian lao của một vùng sơn cước u minh. Quang Dũng đã sử dụng một hình ảnh hết sức sáng tạo, và vô cùng đắc địa. Chỉ một từ “ngửi” đã nói lên được cái ngông, cái ngang tàng của người lính trẻ. Đó không phải là “chạm trời”, hay “chọc trời” mà cây súng ở đây lại “ngửi trời”? Bao nhiêu gian lao khi vượt dốc, băng đường, trở thành một việc vô cùng đơn giản, dễ dàng, cỏn con, chỉ để người lính “ngửi” xem trời như thế nào mà thôi. “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” cũng giống câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” có nhịp ngắt 4/3 với điệp từ và hai vế đối đã bẻ gập câu thơ, vẽ nên trong không gian những đường gấp khúc của rừng núi Tây Bắc lên cao ngút trời, sâu xuống vô cùng, hun hút không thấy đáy. Ấy vậy mà khi vượt qua những chặng đường hành quân như vậy, dường như người lính lại chẳng hề mệt mỏi, bởi dường như bao nặng nhọc đã vơi đi hết bởi một câu thơ toàn thanh bằng độc đáo “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Đó chính là cái tài ở thơ Quang Dũng. Câu thơ đã gợi lên cái phiêu diêu, chơi vơi, bay bổng nhẹ tênh của không gian rộng mở. Những mỏi mệt đã lùi hết về phía sau, vương lại nơi những khấp khểnh đường đi mà người lính đã vượt qua. Người lính bây giờ chỉ thấy khung cảnh trước mắt trải ra ngút ngàn những ngôi nhà xa xôi, chìm khuất ẩn hiện trong màn mưa, gợi lên sự bâng khuâng và thoáng thầm lặng trong nỗi nhớ quê nhà. Tám câu thơ mở đầu “Tây Tiến” đã gợi ra toàn cảnh những vất vả, gian lao, của chặng đường hành quân giữa thiên nhiên khắc nghiệt, rợn ngợp. Đó có lẽ là những ấn tượng sâu sắc và đậm nét nhất trong những kỷ niệm về Tây Tiến của nhà thơ. Xuyên suốt đoạn thơ, ta cảm nhận được nỗi nhớ khi dâng lên ào ạt, mãnh liệt, khi lại như tràn ra mênh mang sâu lắng qua từng câu thơ, vần bằng xen giữa những câu thơ vần trắc, âm hưởng thơ trùng điệp, khi lên bổng lúc xuống trầm, lãng mạn và cũng hào hùng khôn tả. Cũng là một nỗi nhớ về nơi đã từng gắn bó trong những năm tháng hoạt động Cách mạng, song ta lại bắt gặp một phong cách thơ hoàn toàn khác với “Tây Tiến”, đồng thời mang một vẻ đẹp riêng, đó là bài “Việt Bắc” của Tố Hữu. Nếu như “Tây Tiến” được viết theo thể thất ngôn trường thiên thì “Việt Bắc” được Tố Hữu viết theo thể thơ lục bát, mang ít nhiều âm hưởng của ca dao, dân ca. Có lẽ bởi vậy mà nỗi nhớ trong bài thơ là một nỗi nhớ tha thiết, cồn cào mà sâu lắng, đằm thắm, ngọt ngào, đặc biệt là đoạn thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, trăng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi rề Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngơi thia sông Đáy suối Lê vơi đầy Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…” Đọc đoạn thơ, ta thấy ở “Việt Bắc” là một “vân chữ” hoàn toàn khác với “Tây Tiến” Cả đoạn thơ là một khúc ca êm ái, ngọt ngào, chứa chan tình cảm với lời thơ mở đầu “Nhớ gì như nhớ người yêu” Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ như thế nào? Đó là nỗi nhớ mà chỉ có những người từng trải qua cảm giác yêu rồi mới có thể hiểu rõ được. Tố Hữu đã từng tâm sự với Moselle Gansel – một nhà nghiên cứu văn học người Pháp, rằng ông đã phải lòng đất nước mình, vậy cho nên ông nhớ đất nước mình, yêu đất nước mình như nhớ, như yêu hai người đàn bà trong trái tim ông. Chính vì thế mà Tố Hữu mới có thể viết ra một câu thơ lãng mạn đến vậy để miêu tả nỗi nhớ về Việt Bắc “ Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là nét riêng trong sáng tạo, một hình ảnh thơ mà chỉ có Tố Hữu mới hiểu rõ và viết ra đầy tình cảm khiến ta liên tưởng đến câu ca dao “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi” Như đứng đống lửa như ngồi đống than” Đó là nỗi nhớ về những khung cảnh thơ mộng đầy thi vị của vùng Tây Bắc “Trăng lên đầu núi, trăng chiều lưng nương” Hai vế câu thơ là chỉ thời gian đôi lứa hò hẹn nhau. Người Việt Bắc cần mẫn, lam lũ, nên thời gian nghỉ ngơi trong ngày là rất ít, những chàng trai cô gái chỉ có thể gặp gỡ nhau khi trăng đã lên ngang tầm đỉnh núi, hoàng hôn đã buông lưng chừng nương rẫy mà thôi. Có lẽ bởi vậy cho nên khung cảnh khi đó mới là đẹp nhất, lãng mạn nhất trong ngày, nên đã để lại ấn tượng trong Tố Hữu một cách rõ nét và sâu sắc hơn cả. Nằm bình yên giữa núi cao và nương rẫy là những bản làng người dân tộc vùng cao. Khói bếp thổi cơm đưa lên hòa cùng với sương sớm và sương chiều buông phủ xa mờ, tạo nên một bức tranh nên thơ, lãng mạn mơ màng “Nhớ từng bản khói cùng sương” Trong những ngồi nhà chìm khuất trong khói sương ấy là hình ảnh cô thôn nữ tảo tần “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” Những cô gái Việt Bắc thao thức chờ đợi bên bếp lửa gợi lên không gian ấm áp tình người và cả tình đời, lưu giữ lại trong tác giả một hình ảnh thân thương, ấm áp. Việt Bắc có những vùng bạt ngàn tre nứa, mang đầy sức sống và cũng mang bóng dáng của con người nơi đây và những vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà ngay thẳng, kiên cường bất khuất. Tác giả nhớ về rừng tre nứa cũng là nhớ phẩm chất của con người nơi đây “Nhớ từng rừng nứa bờ tre” Nhớ từ những bản làng, người cán bộ đưa tầm nhìn của nỗi nhớ rộng sang những rừng tre nứa, rồi những con suối, dòng sông len lỏi giữa núi rừng “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê rơi đầy” Hai chữ “vơi đầy” không chỉ miêu tả dòng nước mà còn để chỉ sự ấm áp của nghĩa tình gắn bó giữa cán bộ Cách mạng và người dân Việt Bắc suốt 15 năm dài kháng chiến. Như vậy, mỗi bài thơ đều có phong cách rất riêng, khơi gợi lên trong lòng độc giả những sắc thái cảm xúc khác nhau. Đó chính là “vân chữ” của mỗi tác giả, tạo nên giá trị riêng cho mỗi bài thơ, làm nên sự nổi tiếng và sức sống lâu bền cho tác phẩm. Viết ra được những lời thơ như vậy là nhờ vào không chỉ tài năng mà còn là khả năng đào sâu tìm tòi những điều mới mẻ và những cảm xúc, cảm nhận riêng của từng tác giả. Có thể nói Tố Hữu và Quang Dũng là những người nghệ sĩ thứ thiệt với mỗi “dạng vân chữ” độc tồn, “không trộn lẫn” của riêng mình. Lời thơ của Lê Đạt là hoàn toàn đúng đắn và là nhận định có giá trị đánh giá một người nghệ sĩ trong sáng tác văn học. Một nhà thơ đích thực, một nhà thơ thành công là một nhà thơ biết tạo một dấu ấn riêng biệt, độc đáo trong tác phẩm của mình. Bài làm 2 Bài viết của học sinh Cõi đời là cõi hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven dừng chân tại kiếp sống này và để lại cho đời bản Sonata “Ánh trăng”- bản giao hưởng định mệnh. Nhà văn Banzac trước khi về với đất mẹ dấu yêu cũng ghi lại tên mình trên tượng đài văn học với “Tấn trò đời” . Sự đời “thương hải tang điền”, rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn đi tất cả. Những thành quách lâu đài, những kì quan của tạo hóa rồi cũng sẽ dần phôi pha… Thế nhưng, giữa dòng chảy nghiệt ngã ấy, người đời vẫn nhớ đến một ngòi bút Quang Dũng tài hoa, một tiếng thơ thiết tha Tố Hữu, đúng như Lê Đạt viết “Mỗi công dân đều có một dáng vân tay Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn” Vân chữ Quan điểm này đã được thể hiện rõ qua đoạn thơ của nhà thơ Quang Dũng trong “Tây Tiến” “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ? …Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi? Và đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu trong “Việt Bắc” “Nhớ ai như nhớ người yêu ….Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê rơi đầy” Nhà thơ là danh hiệu cao quý mà không phải ai cũng có, dù cho “bản chất của mỗi người là nghệ sĩ” dù cho ai ai cũng có một nhà thơ ẩn khuất trong tâm hồn mình. Hai chữ tài năng đâu phải nhà thơ nào cũng có được. Chỉ có những nhà thơ thật sự xuất chúng mà theo Lê Đạt là có “vân chữ” riêng mới có thể xứng đáng với tiếng gọi “tài năng” này. Với Lê Đạt, nếu như “vân tay” là những đường nét chỉ có duy nhất ở mỗi người, dựa vào đó để phân biệt người này với người khác thì để phân biệt nghệ sĩ thứ thiệt với người nghệ sĩ tầm thường, “vân chữ” là một công cụ đắc lực. Rất nhiều nhà thơ đã sinh ra và ở lại giữa cuộc đời này nhờ vào “vân chữ” – một giọng nói riêng, phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt. Cũng giống như vân tay, phong cách nghệ thuật của mỗi người cũng một khác. Đây cũng là lý do cốt yếu tạo nên sự đa dạng cho văn chương. Khổ thơ đầu của bài thơ “Tây Tiến” là một minh chứng rõ nét cho “vân chữ” tài tình của Quang Dũng. Bằng nỗi nhớ về đồng đội, về chiến trường năm nào, nhà thơ bật lên một tiếng gọi tha thiết, bâng khuâng khi đứng trước kỷ niệm đã xa “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Nhịp thơ êm đềm, giàu cảm xúc biểu cảm được người thi sĩ trở về với cảnh thiên nhiên Tây Bắc, với dòng sông Mã hiền hòa chảy qua Việt Nam rồi trở về với biển khơi xanh thẳm. Đó là dòng sông in dấu bao dấu chân của đoàn quân “Tây Tiến”, là chứng nhân bao kỷ niệm buồn vui của những người lính trẻ kiên cường, là người bạn tiễn đưa bao anh lính trẻ về với đất mẹ, về với cõi vĩnh hằng. Với Quang Dũng, cả sông Mã và Tây Tiến đều đã “xa rồi”. Hai tiếng “xa rồi” khác gì đâu tiếng thở dài, nuối tiếc về hình ảnh dòng sông giờ chỉ còn lại trong kỷ niệm, trong ký ức của người ra đi, thức dậy trong lòng thi nhân nỗi nhớ “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” Đó là nỗi nhớ về núi non Tây Bắc hùng vĩ năm nào, là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, nơi chôn bao lớp xác quân thù và cũng là người bạn đồng hành, chở che cho những anh lính trên đoạn đường hành quân đầy gian khổ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Việt Bắc – Tố Hữu Một câu thơ thôi mà biết cao tình cảm dồn nén trong điệp từ “nhớ”, từng lớp sóng của nỗi nhớ dào dạt, mạnh mẽ dâng trào trong tâm hồn đang hướng về phương xa để rồi thúc giục ngòi bút viết lên từng dòng thơ đong đầy cảm xúc, gọi tên nỗi nhớ vô hình “nhớ chơi vơi”. Đây không phải là lần đầu tiên người đọc bắt gặp nỗi nhớ ấy trong thơ, cũng đồng nghĩa với việc trước Quang Dũng cũng đã có người gọi tên nỗi nhớ ấy rồi. Ca dao xưa từng nói “Ta về nhớ bạn chơi vơi” Đến Xuân Diệu, nhà thơ cũng từng giãi bày “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” Khác với nỗi nhớ về một người, nỗi nhớ về tình riêng ấy, nỗi “nhớ chơi vơi” của Quang Dũng kết thúc bằng hai âm mở mang âm hưởng vọng dài, lan tỏa. Tiếng gọi như vọng ra từ những vách đá của núi rừng Tây Bắc, như vọng ra từ cõi nhớ ngàn trùng của nhà thơ. Câu thơ đọc lên nhẹ tênh, vô hình vô lượng như lại có sức ám ảnh vô cùng. Dòng cảm xúc bắt nhịp thời gian và không gian đưa nhà thơ trở về với những địa danh gắn liền với kỉ niệm “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Hai địa danh đứng đầu dòng thơ dẫn dắt người đọc hướng về miền đất xa xôi, hoang dã, mới nghe mà đã thấy chồn chân mỏi gối rồi. Riêng từ “mỏi” cũng đủ để tái hiện lại hiện thực gian nan, vất vả của cuộc đời người lính trong những năm tháng chiến đấu. Trong thời binh lửa tao loạn là thế nhưng người lính vẫn rộng mở tâm hồn, tinh tế đón nhận vẻ đẹp “hoa về trong đêm hơi”. Thật đẹp làm sao hai chữ “hoa về”! Đó là những bông hoa rừng Tây Bắc rung rinh chào đón những người con ưu tú của dân tộc. Đó là những ngọn đuốc hoa của người dân núi cao đón bộ đội về với rừng, với bản! Từ thơ của Quang Dũng hàm chứa tất cả, làm ấm lòng người chiến sĩ trong những ngày tháng gian lao. Hình ảnh thơ như tượng trưng cho sự lạc quan, yêu đời trong tâm hồn người lính trẻ, mãi là vẻ đẹp lãng mạn của những người thanh niên đất Hà Thành. Nỗi nhớ dựng kỉ niệm thành bức tranh Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, nổi bật với bức chân dung của người lính Tây Bắc “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời” Câu thơ có bảy chữ mà có tới 5 thanh trắc nghe sao thật nhọc nhằn, vất vả. Trở lại gần ba trăm năm về trước, khi miêu tả con đường đưa Kiều đến lầu xanh, đại thi hào Nguyễn Du cũng từng viết “Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh” Truyện Kiều Cũng như Nguyễn Du, Quang Dũng đã sử dụng những thanh trắc để làm nổi bật con đường Tây Tiến gian khổ và hiểm trở. Lời thơ gợi cho người đọc hình dung về địa hình khắc nghiệt trước không gian bao la của đất trời. Bằng từ láy “khúc khuỷu”, “heo hút” cùng “dốc” nối “dốc”, Quang Dũng đã mở ra một không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành bức tranh phù điêu của tạo hóa nơi núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Nhưng đẹp thay, hình ảnh người lính trước không gian bao la không hề nhỏ bé, hữu hạn. Trung tâm thần hứng của đoạn thơ dồn vào ba chữ “súng ngửi trời”. Quang Dũng không nói người lính mà ta vẫn thấy người lính, từ “ngửi” vẽ ra hình ảnh người lính chót vót trên đỉnh núi, là một nhân hóa tinh nghịch gợi ra vẻ đùa tếu hóa. Nếu chỉ là “súng chạm trời” câu thơ sẽ làm mất đi vẻ ngang tàng và bản lĩnh của những anh lính ra đi từ thủ đô hoa lệ. Họ đã vượt qua và chinh phục được thiên nhiên với một vẻ đẹp riêng “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều” Đến đây nhà thơ tiếp tục nhớ lại những chặng đường hành quân gian khổ của người lính từ đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi” Câu thơ ngắt nhịp 4/3 cùng với điệp từ “ngàn” ở 2 vế thơ kết hợp với động từ chỉ hướng “lên” “xuống”tạo nên nét gập gẫy đầy ấn tượng, gợi hình dung những con dốc đột ngột dựng đứng rồi đột ngột hạ xuống đầy hiểm trở. Thế nhưng bước chân người lính đã vượt qua được tất cả, chinh phục được thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của đất trời Tây Bắc “Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi” Câu thơ như giai điệu buông thả mở ra hình ảnh người lính dừng chân, phóng tầm mắt ra xa để thấy những mái nhà nơi bản làng thấp thoáng, mờ ảo trong màn mưa trắng xóa đất trời. Câu thơ thể hiện sự thảnh thơi, nhẹ nhõm, thể hiện chất lãng mạn, bay bổng – một nét đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến. Đoạn thơ có thể tái hiện lại chặng đường đầy gian khổ cũng như vẻ đẹp của người lính Tây Tiến là nhờ bút pháp lãng mạn. Những gian khó, nhọc nhằn được tái hiện lại thật sắc nét qua những hình ảnh “dốc”, “núi”, “cồn mây”… Ngoài ra thủ pháp đối lập còn tạo nên sự chông chênh, chót vót của hình ảnh con người trên đỉnh núi cheo leo. Cũng có thể nói, đoạn thơ là một phần đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Quang Dũng Viết rất hay về người lính vệ quốc, trong thế giới nghệ thuật của ông luôn có một ngòi bút giàu chất lãng mạn, có khả năng diễn tả tinh tế một vẻ đẹp của thiên nhiên, con người. Đến với đoạn thơ trong “Việt Bắc” của Tố Hữu, người đọc lại có dịp khám phá “vân chữ” “không trộn lẫn” của Tố Hữu- một nhà thơ, hồn thơ của dân tộc. Trong giây phút chia tay đầy bịn rịn, luyến tiếc, hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng của các cán bộ Cách mạng dần hiện lên như một thước phim quay “chậm về” cuộc sống trong “mười lăm năm ấy” Có lẽ chẳng có ai “thật” hơn Tố Hữu khi so sánh. “Nhớ gì như nhớ người yêu” Cách liên tưởng này cũng tô đậm thêm tấm lòng nặng tình, nặng nghĩa, trước sau như một của người ra đi dành cho người ở lại! Đâu chỉ có người ở lại mới mang nỗi nhớ nặng lòng, người ra đi cũng nhớ lắm những ngày tháng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, những vẻ đẹp rất “Việt Bắc” không nơi đâu có “Trăng lên đầu nùi, trăng chiều lưng nương” Khung cảnh thơ mộng, thi vị ấy chỉ có ở vùng chiến khu Việt Bắc lịch sử. “Trăng” và “nắng” vẫn là hai hình ảnh thơ không còn xa lạ gì trong kho tàng thơ Việt Nam. Hồ Chủ tịch từng có một hình ảnh trăng rất thơ mộng, yên tĩnh “Khuya về bát ngát, trăng ngân đầy thuyền” Rằm tháng riêng Thế nhưng hai hình ảnh này được đặt trong không gian đặc trưng của Việt Bắc lại mang vẻ đẹp rất riêng, gợi ra cái thơ mộng cùng vẻ hoang dã của rừng núi. Đây cũng là thời gian hò hẹn của lứa đôi. Bóng dáng những chàng trai và những cô gái e ấp, hẹn hò đôi lứa tự bao giờ đã trở thành một phẩm chất của cảnh Việt Bắc thanh bình, là ký ức không thể quên của những cán bộ cách mạng khi về xuôi chia tay Việt Bắc. Họ ra đi mang theo dư âm của khung cảnh thi vị và mang theo cả hình ảnh bản làng chìm khuất giữa khói sương hư ảo. “Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” Cận cảnh từng bản làng ấy là những cố gái Việt Bắc đang thao thức chờ đợi bên bếp lửa. Trong nỗi nhớ về quá khứ, ta thấy được cả hơi ấm của tình người, tình đời mà quân dân dành cho nhau suốt mười lăm năm trường kì kháng chiến. Hình ảnh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc là những hồi ức mà cán bộ cách mạng không bao giờ quên “Nhớ từng rừng nứa, bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” Ngày mới đến, tre nứa trải dài, bát ngát sức sống như mang bóng dáng của những con người nơi đây. Ngày họ đi, tre nứa còn là biểu tượng cho tâm hồn cả một đồng bào sắt son, thủy chung tình nghĩa bởi khi nhớ đến loài tre, họ sẽ nhớ đến những tháng ngày chung sống trên miền núi phía Bắc này. Những địa danh “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” không chỉ là nơi lưu dấu những chiến công mà còn là nơi lưu giữ những kỉ niệm. Cho nên cái “ăm ắp” kia không chỉ là hình ảnh dòng nước mà còn là sự ăm ắp của nghĩa tình. Hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng ấy ít nhiều cũng thể hiện được tình cảm gắn bó tha thiết sâu nặng của cán bộ về xuôi dành cho những con người khoác “áo chàm”. Khác với bài thơ “Tây Tiến”, đoạn trích trong “Việt Bắc” sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị, ít mang giá trị tạo hình. Thể thơ truyền thống và cách so sánh, diễn đạt trong ca dao dâm ca khiến bài thơ trở nên quen thuộc, dễ gần gũi với độc giả. Điều này cũng mang nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, đậm đà tính dân tộc. Hai đoạn thơ đều viết về một giai đoạn hào hùng của dân tộc 1945 – 1954- giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nhưng bên cạnh chủ đề khác nhau còn được thể hiện theo hai phong cách nghệ thuật khác nhau. Một bên lãng mạn, tinh tế, một bên đậm đà tình dân tộc với khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Sự khác nhau giữa 2 phong cách là do Tố Hữu luôn song hành cùng các giai đoạn đấu tranh cách mạng của dân tộc, lại là 1 con người yêu nước, vui sướng khi được Đảng để góp sức cho nước nhà. “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim” Vì vậy mà thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc và khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Còn Quang Dũng vốn là một nhà thơ mang ngòi bút với vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch, lại từng trực tiếp tham gia vào đoàn binh Tây Tiến nên những kỉ niệm được khắc họa lại vô cùng chân thực. Hai bài thơ với hai “vân chữ” khác nhau mang trong mình những vẻ đẹp riêng, những vẻ đẹp làm nên một hồn thơ “Quang Dũng”, làm nên một Tố Hữu của người Việt Nam, sông Việt Nam, đất nước Việt Nam. Sedrin từng nói “Văn học vượt qua mọi quy luật băng hoại của thời gian. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Việt Bắc” của Tố Hữu là những minh chứng hùng hồn cho nhận định muôn thuở ấy. Nhưng vần thơ ấy sẽ mãi ngân vang, bay xa trên thi đàn văn học nước nhà để mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tự hào nói rằng chúng ta đã từng có một Tố Hữu như thế, một Quang Dũng như thế! Xem thêm Tuyển tập đề thi học sinh giỏi môn Văn
đề bài tây tiến